XÃ BÌNH LÃNG - HUYỆN TỨ KỲ - TỈNH HẢI DƯƠNG 

Bình Lãng (tên nôm: Lạng) là một xã thuộc tổng Phan Xá, phủ Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương
1.Tên gọi:
Về ý nghĩa tên gọi: "Bình" (): thanh bình, "Lãng"(): ánh sáng; "Bình Lãng": ánh sáng thanh bình.[1]
Nguồn gốc tên gọi: chưa xác định được tên gọi Bình Lãng bắt đầu được sử dụng từ bao giờ. Tuy nhiên, theo bia đá "An Lạc tự hồng chung bi ký" ở An Lạc Tự (Chùa Núi) được khắc ghi vào năm Mạc Đoan Thái thứ 3 (1588) có nhắc đến tên "xã Bình Lãng" bên cạnh tên Tứ Kỳ và Hải Dương.[2] Như vậy năm 1588 được xác định là năm muộn nhất mà tên Bình Lãng được sử dụng.
Ngày 16 tháng 6 năm 2025, Quốc Hội thông qua Hiến pháp 2013 sửa đổi, bỏ cấp huyện; Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XV đã thông qua nghị quyết số 1669 về việc sáp nhập xã Bình Lãng vào xã Đại Sơn, TP. Hải Phòng (hoạt động từ ngày 01/7/2025) Với Bí thư xã đầu tiên là bà Trịnh Ngọc Ánh (SN 1984), Chủ tịch xã đầu tiên là ông Đào Văn Soái (SN 1979). Đến đây đã chấm dứt cái tên Bình Lãng với tư cách là một xã độc lập sau khoảng ít nhất 500 năm.

Bia "An Lạc tự hồng chung bi ký" khắc dựng ngày 28 tháng Giêng năm 1588

Gạch mộ Hán ở Đống Cao, làng Khổng Lý có niên đại gần 2000 năm với hoa văn đặc trưng hình ô trám
(Hiện vật cổ nhất ở Bình Lãng đã chứng minh cho lịch sử định cư lâu đời hàng ngàn năm của cư dân nơi đây ).

2. Vị trí địa lý:
Bình Lãng có hình dáng tựa như một con dao cầu đang thái thuốc với chuôi dao là Khổng Lý và vốn có lãnh thổ là một bán đảo chồi ra phía đông bắc với 3 mặt nước: Sông Cái ở đông bắc, vụng Lạng ở phía Tây, còn phía đông là một phụ lưu của sông Cái chảy về phía An Phòng.
Phía Tây giáp xã Lạc Dục (Dọc), thôn Ngọc Trấn (xã Ngọc Tái); phía nam giáp xã Thái Lãng; phía đông giáp xã Toại An; phía bắc giáp sông Thái Bình (Cái).
Hình ảnh "con dao Cầu đang thái thuốc" Bình Lãng (với chuôi dao là Khổng Lý)
3. Điều kiện tự nhiên và sông ngòi:
Địa hình bằng phẳng bên cạnh những “đường đống” (những điểm cao bằng phẳng) như: Đống Dùi, Đống Cao, … (ở Khổng Lý), Đống U, Đường Tam Tiên (thôn Thượng), Đống Xung, Núi đất ở chùa Núi (thôn Đông), …
Đất đai, bên cạnh đất ở, đất ruộng được chia thành 2 loại là: đất ruộng đồng đất ruộng triều. Trong đó đất ruộng triều vốn được bồi đắp bởi phù sa sông Thái Bình từ trước năm 1959 khi con đê ngăn lũ chưa được đắp. (Đầu năm 2022, đoạn đê qua Khổng Lý và Thượng thôn được mở rộng với quy mô lớn )
Về sông ngòi, Ngoài con sông lớn Thái Bình (Cái), từ trong lịch sử Bình Lãng được bao bọc bởi các con sông nhỏ: sông Dọc (qua Bình Lãng dài 5.8 km- (đoạn chảy qua cửa đình Thượng được gọi là sông Mồ Cối), sông Giếng Củng ở Khổng Lý – đó là 2 con sông chảy song hành uốn khúc mà bao bọc lấy một vụng nước lớn gọi là Vụng Lạng; sông Bến (ranh giới tự nhiên với Toại An). Từ năm 1959 thì hình thành thêm con sông đào với tên gọi “sông Máng”.
4. Diện tích và dân số:
Theo Địa bạ mà các sắc mục của xã khai thời vua Gia Long (năm 1805), được sao lại dưới thời vua Tự Đức (năm 1873) thì toàn bộ diện tích của Bình Lãng lúc đó là: 768 mẫu, 5 sào, 4 thước, 8 tấc.
Địa bạ xã Bình Lãng được lập năm 1805, sao lục năm 1873
(người lập; các sắc mục: Khương Viết Quỳ, Nguyễn Đắc Trứ; xã trưởng Khương Huy Phục;
 Khán thủ: Nguyễn Dũng; thôn trưởng Khổng Lý: Nguyễn Lộc)
Diện tích hiện nay của xã Bình Lãng là 4.6 km2 với dân số 5228 người (Tổng điều tra năm 2009); 5922 người với 1869 hộ gia đình (năm 2016).
5. Hành chính
Bình Lãng vốn có 3 làng: Khổng Lý ở phía bắc (tên nôm: Lạng Khổng), Thượng ở phía tây (tên nôm: Lạng Thượng) và Đông ở phía đông (tên nôm: Lạng Đông). Điều đó được ví von qua câu “Đầu Trắm đuôi Mè giữa khe Tam Lạng”. Văn bản cổ nhất hiện còn có nhắc đến tên "Thượng thôn" (thôn Thượng) là bản rập văn bia “Phụng sự Nguyễn gia bi ký” và mặt bia "Hậu đường" khắc ghi năm Chính Hòa thứ 3 (năm 1682) ở xã Ô Mễ; còn văn bia “Thái phụ Nguyễn thị trị sản trí phú tự sự bi ký” ở lăng Bà Bổi Lạng năm 1720 là văn bia sớm nhất hiện còn nhắc đến tên thôn Đông và Khổng Lý. Từ khoảng năm 1947, 1948 có 2 thôn là Thượng và Đông. Mỗi thôn lại chia thành nhiều xóm. Trước năm 1945 còn có thêm một loại tổ chức của các họ lớn đó là “giáp”.


Mặt bia "Hậu đường" (khắc năm Chính Hòa thứ 3 -năm 1682) ở khu lăng mộ bà Chúa Chén (Đống ông Hùng, Ô Mễ)
có nhắc đến "thôn Thượng"
dòng chữ (được đánh dấu xanh) ở mặt bia Hậu đường: "Bình Lãng xã, Thượng thôn ốc tổ"
(tạm dịch: họ nội ở thôn Thượng xã Bình Lãng)

"Thái phụ Nguyễn thị trị sản trí phú tự sự bi ký" năm 1720
- Tấm bia cổ nhất hiện biết mà có nhắc đến tên thôn Đông và Khổng Lý

mặt thứ 3 của bia "Thái phụ Nguyễn thị, trị sản trí phú tự sự bi ký"



Trang Địa bạ của thôn Thượng
Trước năm 1945, đứng đầu xã là 1 lý trưởng và 1 phó lý. Đây là những “lý dịch” tiêu biểu để thực hiện các ý chí của “Hội đồng kỳ mục” mà đứng đầu là tiên chỉ và thứ chỉ. Từ năm 1921 có thêm “Hội đồng hương chính” với người đứng đầu là “Chánh hương hội” và “Phó hương hội” được bầu ra từ 20 tộc biểu. Lý trưởng Bình Lãng cuối cùng (trước 25/8/1945) là ông Nguyễn Tất Quyền (1911 - 1951)-ông là Phó chủ tịch lâm thời, UB hành chính 1945-1946.
Trong thời kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ủy ban Hành chính xã được thành lập; từ 1982 đến hiện nay là Ủy ban Nhân dân xã mà đứng đầu là chức danh “chủ tịch”. Vị chủ tịch xã đầu tiên (1945 -1949) là ông Nguyễn Ngọc Giản (Thông Đan) (1903 - 13/tháng giêng/1951 âl) người thôn Đông.
Nhà Hội trường ở trụ sở xã được xây dựng năm 1973 sau khi phá dỡ Chùa Chợ
Chi bộ xã Bình Lãng đầu tiên được thành lập ngày 15/11/1947, ông Nguyễn Tất Lĩnh là bí thư đầu tiên. Năm 1960, Chi bộ phát triển thành Đảng bộ, thời gian sau (năm 1964) thì lập 2 chi bộ ở 2 thôn (ở thôn Thượng và thôn Đông), sau một đời gian dài chia tách thành các chi bộ đội sản xuất, xóm, liên xóm, Chi bộ thôn được tái lập năm 2001 (ông Nguyễn Văn Hiếu là Bí thư thôn Thượng khóa I: 2001 - 2002).
Đầu thập niên 1990, thành lập chức danh Thôn trưởng, phó thôn trưởng; xóm trưởng; Trưởng thôn Thượng đầu tiên là ông Khương Viết Chí; Chức danh "xóm trưởng" chấm dứt vào tháng 8 năm 2006. 
6. Luật và lệ
Theo tâm niệm của cư dân xưa kia thì “Phép vua thua lệ làng” cho nên lệ làng hay là hương ước có một vị trí quan trọng và hiệu lực rất lớn. Bình Lãng đã có một bản hương ước cổ từ lâu. Sau năm 1921, người Pháp thực hiện cuộc Cải lương hương chính, Hương ước mới được ban hành năm 1936 có kế tục bản hương ước cổ. tuy nhiên, sau Cách mạng tháng Tám, bản hương ước này cũng chấm dứt hiệu lực. 
Từ tháng 4/2001, dưới những nỗ lực cải cách của Bí thư thôn Nguyễn Văn Hiếu (1956 - 2024), việc đưa tang của thôn Thượng và Khổng Lý vào buổi chiều tự bao đời thì nay được chuyển sang buổi sáng. 

7. Giao thông
Trong lịch sử, đường làng là những đoạn đường bộ đất ngoại trừ Khổng Lý có đường làng bằng hai hàng đá phiến xanh. Năm 1996, dưới thời chủ tịch Nguyễn Văn Hiến (1955 - 2023), đường trục xã được trải đá. Từ năm 2006 đường làng dần được trải bê tông. Giao thương bên ngoài còn có đường thủy mà Đò Lạng là một điểm trung chuyển quan trọng đã hình thành từ lâu đời, đường bộ thì qua Cầu Mai – Đó là 1 cầu đá trước khi bị Pháp phá; một con đường bộ khác từ cửa Đình Thượng đến trước chùa Đống Nương – Thái Lãng gọi là ngã ba Hoa.
Con đường liên huyện 191E (đoạn từ miếu Thái Lãng đến đường Tam Tiên) dài 723 m được trải bê tông
(hoàn thành ngày 09/11/2017)
Năm 1993, Trưởng thôn Thượng là ông Nguyễn Đình Văn (1992 - 7/1997) đã đề xuất, nỗ lực vận động, tổ chức kéo điện lưới cho thôn Thượng. Thời gian sau, ông tổ chức trải đá cấp phối cho các tuyến đường thôn Thượng. 
8. Kinh tế
Nông nghiệp trồng lúa vẫn là ngành kinh tế chủ yếu của người dân; ngoài ra, trong lịch sử Bình Lãng còn có một nghề đặc trưng đó là nghề tiện (ở Khổng Lý). Xưa kia, “chợ làng” ở Bình Lãng là Chợ Lạng (trước mặt chùa Chợ) nơi trao hổi hàng hóa của người dân 3 làng. Sau chợ Lạng tan dã, đầu thập niên 2000, ở mỗi thôn lại có 1 chợ riêng với tên gọi: chợ Đình (Thượng) và chợ Đình (Đông) (vì được tụ họp trước mặt 2 ngôi đình của 2 làng).
Ngoài chợ làng, trong lịch sử người dân còn giao thương buôn bán với rất nhiều các chợ khác ở các huyện giáp Tứ Kỳ như Thanh Hà, Gia Lộc. Sau hình thành nên tập quán “buôn chuyến” ở các tỉnh xa của cư dân làng Thượng.
Trong thời kì “hợp tác xã nông nghiệp” (1958 – 1993), ở mỗi thôn đã thành lập 1 hợp tác xã: Hợp tác xã Thượng Hải ở thôn Thượng, Hợp tác xã Đông Phong ở thôn Đông. Mỗi hợp tác xã lại lập ra các đội sản xuất nông nghiệp như ở thôn Khổng Lý lập đội sản xuất Quang Trung, xóm Ngõ Tộp có đội sản xuất Hồng Quang, xóm Đầu Cổng lập đội sản xuất Minh Sơn, xóm Đình (Đông) lập đội sản xuất Bắc Sơn, xóm Miếu lập đội sản xuất Chi Lê, xóm Trại đồng (đội Tân Sơn), xóm Trại triều (Tiến Hải), ...
9. Lược sử
Trong 3 làng ở Bình Lãng thì chỉ có làng Thượng là có “Tổ ốc miếu” thờ Tổ ốc đại thần (người có công đầu tiên khai phá vùng đất). Vấn đề đặt ra là, ông “Tổ ốc” đó là của làng Thượng hay của cả 3 làng. Có lẽ đó chỉ là ông lập ra làng Thượng vì trước năm 1945, trong lễ tế của các làng chỉ duy có làng Thượng là rước “Tổ ốc đại thần” còn các làng thì không. Tuy nhiên, với việc chỉ riêng làng Thượng có “Tổ ốc miếu” rất có thể những người đầu tiên đến khai phá vùng đất Bình Lãng đã định cư ở thôn Thượng đầu tiên.
Những bằng chứng tồn tại đến ngày nay chỉ mô tả tóm lược được lịch sử Bình Lãng từ quãng thời Trần khi gần đây các nhà sư ở chùa Núi khai quật được một hình linh vật của ngôi chùa này có niên đại khoảng thế kỉ XIII – XIV.
Sang thế kỉ XVI, những dữ liệu bắt đầu nhiều hơn khi ông Nguyễn Sách Hiển được lưu truyền tên vì ông đỗ tiến sĩ năm 1580, hay những hoạt động của gia đình người phụ nữ họ Nguyễn Tất mà sau này là “Vương phủ đệ tam cung tần” (Bà Chúa Chén). Bia đá “An Lạc tự hồng chung bi ký” khắc năm Đoan Thái thứ 3 (1588) thì nhắc đến những người ở thôn Đông công đức đúc chông chùa Núi đến từ họ Trần, họ Phạm, họ Nguyễn Khắc, Nguyễn Văn, … Đây cũng là thời kì mà họ Nguyễn Tá (gốc Đào) về định cư ở thôn Đông.
Mộ cụ Đào Thịnh Đức (thế kỉ XVI) ở Đống Thiên Mã (Đống Xung) - Tổ của họ Nguyễn Tá gốc Đào thôn Đông và mộ quận công Đào/Nguyễn Tá Tích
(ảnh chụp trước tháng 6/2025)
Giữa thế kỉ XVII, thôn Đông có ông Nguyễn Tá Tướng đỗ tiến sĩ; ông Khương Thế Hiền ở thôn Thượng đỗ tới thám hoa (tên được ghi trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư).
Sang thế kỉ XVIII, có bà Bổi Lạng ở thôn Đông nức tiếng giàu có. Khi về già bà làm một cái lăng bằng đá, trên bia đá cạnh lăng có liệt kê 25 xã, thôn, giáp trong huyện mà bà công đức ruộng hoặc tiền trong đó có cả 3 thôn ở Bình Lãng: Khổng Lý, Thượng, Đông.
Giữa thế kỉ XIX, bia đá hiện còn nhắc đến việc tu bổ Đình Thượng năm 1851 và Chùa Núi năm 1866.
Đầu thế kỉ XX, Đình Thượng được xây dựng lại khang trang (năm 1916) như ngày nay.
Cách mạng tháng Tám thành công ở Bình Lãng ngày 25/8/1945 do sự lãnh đạo của các ông Nguyễn Tất Đỉnh (1926 - 2019), Khương Viết Chủy (1925 - 2012) (thôn Thượng), Nguyễn Đức Nghìn (1916 - 1989) (Khổng Lý).
10. Tộc họ
Mốt vấn đề được tranh luận nhiều nhất là dòng họ nào đã định cư đầu tiên ở Bình Lãng? Đó là câu hỏi chưa có lời giải bởi những nguồn tài liệu hiện còn chỉ  chứng minh được ở mỗi thôn. Thôn Khổng Lý thì dường như là họ Nguyễn Đức đã định cư sớm hơn cả. Ở thôn Thượng, người dân vẫn còn truyền câu “Khương gia tiên tổ. Nguyễn gia tiên tổ” hay “Nhân nhân hấp Nguyễn, Khương chi tục”. Vậy là Nguyễn, Khương chính là 2 dòng họ đã định cư sớm nhất ở đây. Thêm nữa, tiến sĩ Nguyễn Sách Hiển thì sinh năm 1545 còn Bà Chúa Chén (theo tài liệu họ Vương ở Ô Mễ) người họ Nguyễn Tất thì sinh năm 1589 nhưng ông nội của bà là cụ Nguyễn Dụng (tự Phúc An) đã sinh ra và lớn lên ở thôn Thượng. Với sự khá tương đồng về thời gian đó, cho nên họ “Nguyễn gia tiên tổ” ở đây là họ Nguyễn Sách, Nguyễn Tất.


Mộ tổ họ Nguyễn Tất (muộn nhất là thế kỉ XVI) ở Mả Cả xứ
Tấm bia đá “An Lạc tự hồng chung bi ký” ở  chùa Núi (làng Đông) khắc ghi năm 1588 đã nhắc đến những người công đức đúc chuông đến từ họ Trần, Phạm, Nguyễn, …
Ngày nay Bình Lãng có rất nhiều dòng họ (Khương, Trần, Lê, Trịnh, Nguyễn Tất-Sách-Tá-Đức-Văn-Ngọc-Đình-Kim-Khắc-Hanh-Đắc-Bá-Quang-Trọng-Tiến-Danh, Phạm, Phan, Hoàng, Vũ, Bùi, Đỗ, Đặng, Đinh, Trương) nhưng mức độ phổ biến lại khác nhau. Có những họ chỉ định cư duy nhất ở 1 làng như họ Nguyễn Đức, Nguyễn Đắc ở Khổng Lý; họ Khương, Nguyễn Tất, Nguyễn Sách, Lê chỉ có ở thôn Thượng; họ Nguyễn Tá, họ Trần lại chỉ có ở thôn Đông. Tuy nhiên, cũng có những dòng họ lại định cư ở cả 3 làng như họ Nguyễn Ngọc, Nguyễn Văn, Nguyễn Đình.

Một mộ tổ họ Nguyễn Ngọc làng Khổng Lý (ngành 2) ở Đường Thước Thợ (2005)



Một số dòng họ đã biên chép được những bộ gia phả chữ Hán truyền lại đến ngày nay.


Trang đầu Gia phả họ Trịnh thôn Đông được soạn dưới thời vua Khải Định (1916 - 1925)
11. Giáo dục
Trong suốt thời phong kiến, Bình Lãng có 3 vị đỗ tiến sĩ: Nguyễn Sách Hiển (1580), Nguyễn Tá Tướng (1617 – 1655) đỗ tiễn sĩ năm 1646, tử trận khi đi đánh chúa Nguyễn), Khương Thế Hiền (thám hoa, năm 1650). Ngoài ra còn có 2 vị đỗ hương cống dưới thời Vua Lê chúa Trịnh là Nguyễn Tá Triều (1652 – 1725) và Nguyễn Tá Dong (giữ chức Huấn đạo). Như vậy số lượng tiến sĩ của Bình Lãng chỉ kém các xã trong huyện là Hương Quất và La Xá.
Trước Cách mạng tháng Tám, Đình Thượng là một nơi diễn ra các hoạt động giáo dục trên địa bàn xã. Năm 1953, Trường cấp I được thành lập (ông Vũ Viết Thanh là hiệu trưởng đầu tiên). Năm 1966, Trường cấp II ra đời với hiệu trưởng đầu tiên là ông Trịnh Đình Sính (1933 - 1974) (người thôn Đông).
12. Văn hóa, tâm linh
Với tâm thức “Chuông làng nào làng đấy đánh. Thánh làng nào làng đấy thờ”, trước năm 1945, mỗi làng  đều có 1 ngôi đình để thờ các vị thành hoàng (vị thần bảo trợ cho làng). Đình thực sự là một trung tâm của mỗi làng bởi đây là nơi họp bàn việc làng và diễn ra các hoạt động văn hóa hàng năm như tế Thành hoàng, …
Đình Khổng Lý thờ thành hoàng là ngài Khổng Phàm cư sĩ đại vương với các ngày lễ truyền thống là mồng 5 tháng Giêng và mồng 10 tháng 11, Đình Thượng thờ thành hoàng: Thiên Bồng đại tướng trấn cảnh đại vương – Đào Hoằng, Đình Thượng vốn còn thờ Bà Chúa Chén và gia đình nhà bà; Đình Đông thờ thành hoàng: Hướng Thiện cư sĩ đại vương – Đào Cung với các ngày lễ quan trọng là mồng 4 tháng giêng và mồng 10 tháng 11, ngoài Thành hoàng, Đình Đông vốn thờ Bà Bổi Lạng và gia đình bà làm hậu thần.
Các vị thần như Thành hoàng ở cả 3 làng đều nhận được nhiều sắc phong của các vua kể từ giữa thế kỉ XVIII.
Ngoài trung tâm văn hóa – chính trị là đình thì 3 làng còn có các địa điểm tâm linh khác như:
Làng Khổng Lý có 1 chùa và 1 miếu.
Hình tượng rồng trên cổ vật ở Khổng Lý tự (chùa Khổng Lý)
Làng Thượng có 2 chùa (chùa Cầu Mai (đầu thế kỉ XXI có tên là "Linh Quang tự" với sư trụ trì đầu tiên là: Thích Nữ Diệu Hiền kể từ ngày 16/6/2010 âl; lễ hội truyền thống vào 18 tháng giêng âl; ngày 09/9/Đinhh Dậu-2017 nhà chùa đã đúc quả chuông 700 cân) và chùa Chợ), 4 miếu (miếu Hoàng cô Bến Ả theo truyền thuyết là thờ bà cô mà đã báo cho dân làng biết về sự hóa thân của các vị Thành hoàng, hoàng cô Cầu Mai, miếu Tổ ốc, miếu Thiên Bồng). Đình Thượng được xây dựng từ lâu và được tu bổ lớn vào các năm 1851 và 1916. Giếng đình Thượng được hình thành từ 1 sào ao mà bà Chúa Chén đã cung tiến từ đầu thế kỉ XVII để mua hậu thần cho cha bà là ông Nguyễn Vũ Nghị (thụy Phúc Khang)


Đình Thượng vốn có từ lâu. Đây là tòa đình có tuổi thọ 105 năm (1916-2021)
(năm 2021-2022, dưới thời ông Nguyễn Văn Nghiêm làm Thủ từ, đình Thượng được tái tạo)
Làng Đông có 2 chùa (chùa Núi (hội vào 26/8 âl) và chùa Thầy), 1 miếu ở cuối làng, 1 đền (mà bi ký hiện còn nhắc đến việc xây dựng một “Thạch giá kiều” (cầu đá) bắc vào đền với “nhất gian tứ trụ” – 4 cột vào năm Duy Tân thứ 9 – năm 1915. Chùa Núi (An Lạc tự) được hình thành muộn nhất là thời Trần vốn được tọa trên núi đất. Chùa có nhiều bia đá trong đó tấm bia cổ nhất khắc ghi năm 1588 dưới thời Mạc.


Bia đá kể về việc dựng một cây cầu đá vào đền thôn Đông (tháng 11/năm Duy Tân thứ 9 -1915) 
Ngôi tam bảo cổ nhất của chùa Núi  có vết tích từ giữa thế kỉ XIX.1866-2022
năm 2022, sư Thích Thanh Việt đã tái tạo tòa tam bảo mới.
Cây quéo cổ bên giếng chùa Chợ xưa
Sách Tứ Kỳ địa dư phong vật chí có tả về ngôi chùa “thôn Đông, xã Bình Lãng có một núi đất cao chon von, dáng vẻ thanh tú đáng yêu. Phía trước có dòng suối uốn lượn, quanh co. Vốn xưa trên đỉnh núi có một ngôi chùa cổ nay vẫn còn. Đời vua Minh Mạng, người dân ở đất này dời chùa xuống sườn núi”.
Về từ đường (nhà thờ họ), một số dòng họ đã khội phục được từ đường: họ Nguyễn Ngọc, Nguyễn Văn (ở Khổng Lý); họ Trịnh, Lê, Nguyễn Kim (ở Thượng), họ Trịnh, Nguyễn Tá, Trần ... (ở Đông). 
Trước năm 1945, những người có của ở Bình Lãng thường mua về hoặc xây dựng những căn nhà gỗ lim với lối kiến trúc tinh xảo như nhà của cụ Bá Tuynh (Khương Viết Tuynh), anh em cụ Lý Vuốt (Trịnh Hữu Thổ) (1878 - 1953), Trịnh Thị Hiên (1881-1967) (thôn Thượng), ... Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn nhà gỗ của cụ Trịnh Hưng (cụ Lý Hống) thôn Đông được làm năm 1911, hay nhà gỗ của cụ lý trưởng Trịnh Hữu Thổ thôn Thượng tuy mới được mua về từ thời vua Bảo Đại (1925 – 1945) nhưng nó đã có lịch sử hàng 200 năm.
Các công trình thể hiện sự tài hoa khéo léo của người thợ xưa.
Bức hoành phi "Trung hậu truyền gia" trong ngôi nhà gỗ của cụ Trịnh Thị Hiên (niên đại đầu thế kỉ XX)
(Câu đối đã mất: Bút bồi cơ chỉ thiên niên tại; Ca tụ môn đình thập thế lai")
( 筆 培 基 址 千 年 在
歌 聚 門 庭 十 世 來 )

Ngôi nhà gỗ còn lại của cụ Lý Hống (Trịnh Hưng) thôn Đông được xây dựng năm 1911.

Văn bia ở Bình Lãng còn lại đến ngày nay là ở chùa Núi, Đình Thượng, lăng Bà Bổi Lạng, đền Đông (nơi dường như là thờ Trần Hưng Đạo vương). Nơi giữ những bút tích của các nhà danh Nho trong thiên hạ như thám hoa Nguyễn Quý Đức người Sơn Nam (người soạn văn bia ở lăng Bà Bổi Lạng năm 1720) hay tiến sĩ Nguyễn Quý Tân người huyện Gia Lộc (người soạn văn bia đình Thượng năm 1851),…
13. Nhân vật
Đó là những người con của Bình Lãng được ghi danh vì những đóng góp cho dân làng hay thành danh ở nơi khác:
Quận công Nguyễn/Đào Tá Tích (Ông nội của tiến sĩ Nguyễn Tá Tướng) là quan của nhà Mạc. Sách Tứ Kỳ địa dư phong vật chí thời Nguyễn có kể về ông “thân dài 7 thước, sức khỏe như thần, đỗ cử nhân võ, nắm giữ quân Cẩm y. Sau nhà Lê Trung Hưng giao chiến với nhà Mạc ở sông Nhị Hà. Chúa Mạc bị bao vây, ông liền tuốt kiếm xông vào trận, đột phá vòng vây cứu được chúa Mạc. Ông được phong tước là quận công. Khi nhà Mạc thua chạy lên cao Bằng, nhà Lê dụ ông thần phục nhưng ông than rằng “trung thần không thờ 2 vua” rồi đâm kiếm vào bụng mà chết. Vua Lê khen là bầy tôi trung liệt.”
Bà Chúa Chén (Nguyễn Thị Ngọc Chén) (1589 – 9/8/1626) (theo tài liệu họ Vương cùng những đối chứng bi ký ở Ô Mễ) (***) sinh tại làng Thượng, mất tại Ô Mễ. Bà là vợ của chúa Trịnh Tùng với danh hiệu “Vương phủ đệ tam cung tần”. Sách cổ chép về bà “xã Bình Lãng có 2 vị cung phi: cô là Nguyễn Thị Chén và cháu là Nguyễn Thị Dung, nhan sắc tuyệt trần, tiếng trong như hạc, từng tập nghề ca xướng nổi danh ở đời. Nhà vua nghe tiếng liền mời vào và trọng dụng, phong làm cung phi và ban cho danh hiệu Ngọc Chén, Ngọc Dung.


Lăng mộ bà Chúa Chén ở quê ngoại của bà (Ô Mễ)
Bà Bổi Lạng – Nguyễn Thị Thuyết (1647 – 27/9/1721) sinh và mất tại làng Đông.  Lòng nhân từ đã làm bà được ca tụng bằng những từ đẹp nhất: “tố phong”, “thạc nhân” (con người lớn lao).
Thiền sư Tính Ấn (dòng Lâm Tế), người Đông thôn, từng trụ trì Côn Sơn Thiên tư phúc tự (chùa Côn Sơn) đầu thế kỉ XVIII. Năm 1727, có công cùng Huấn đạo Nguyễn Tá Dong chủ trì đợt trùng tu lớn chùa An Lạc (ngài viên tịch ngày 20 tháng 8; là một trong "An Lạc tam tổ").
Ông Nguyễn Tất Đỉnh (1926 - 2019) (thôn Thượng) là con của cụ chánh hội Nguyễn Tất Khánh, ông là người lãnh đạo chủ chốt của cuộc cách mạng tháng Tám giành chính quyền ở xã Bình Lãng năm 1945 (lúc ông 19 tuổi). Đảng viên cộng sản thứ hai của Bình Lãng (tháng 10/1947). Sau ông làm đến chuyên viên Bộ Nông nghiệp (nghỉ hưu năm 1984).


Cụ Nguyễn Tất Đỉnh, 91 tuổi, tại lễ kỉ niệm 70 năm thành lập Đảng bộ Bình Lãng (15/11/2017)
Ông Nguyễn Tất Lĩnh (1926 - 1998) (thôn Thượng) là bí thư xã Bình Lãng đầu tiên (ngày 15/11/1947) (lúc mới 21 tuổi). Huyện đội trưởng Kim Thành (1948 - 1949), một bí danh khác của ông là Mai Tất Lĩnh. Mẹ ông là bà Nguyễn Thị Nhẹ (1900 - 1980) đã ủng hộ cách mạng xã nhiều nhất với 2 chỉ vàng và 1000 đồng bạc Đông Dương.

Đại tá Nguyễn Ngọc Nhã (thôn Đông)
Ông Nguyễn Ngọc Bảng (1939 - 1993), thôn Đông - Trưởng ty (Giám đốc Sở) Giáo dục Thuận Hải.
Ông Nguyễn Tá Dước (SN 1954) (thôn Đông) – Giám đốc sở Tài nguyên – Môi trường Hải Dương (2001 - 2013).

Ông Trịnh Văn Chương (SN 1948) (thôn Thượng) Bí thư Huyện ủy Hải Hà – Quảng Ninh (2002 - 2005).
Ông Nguyễn Văn Nghiêm (SN 1950) (Khổng Lý) - Chánh án Tòa án huyện Tứ Lộc, Tứ Kỳ (1988-2000); Với quyết tâm lớn của Bí thư xã Trần Xuân Mãng, ông đã chấp bút cuốn Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân xã Bình Lãng (2015). Ông có công tổ chức tu tạo Đình Thượng (2021-2022).
Ông Nguyễn Văn Hiến (1955 - 2023) (Khổng Lý), Có nhiều đóng góp quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho xã Bình Lãng (điện, đường, trường, trạm) trong thời gian ông làm Chủ tịch xã 1994 - 1997.
Ông Nguyễn Ngọc Sẫm (SN 1971) (Khổng Lý) – Chủ tịch huyện Tứ Kỳ (10/2014 - 12/2020), Bí thư huyện ủy Tứ Kỳ (8/2020--12/2024), có nhiều tâm sức đóng góp căn bản, to lớn cho quê hương.
Ông Trần Hồ Đăng (thôn Đông) (SN 1970) - Chủ tịch TP.Hải Dương (4/2020 - 10/2024), cha: Luật sư Trần Đại Biểu.
Ông Nguyễn Tá Duân (thôn Đông) (SN 1975) - Chủ tịch huyện Ninh Giang (24/12/2024 - 30/6/2025).
Thiếu tướng Hoàng Văn Sỹ (SN 1968) (thôn Đông) - Tư lệnh Binh đoàn 15 - (12/1/2023)
Thượng tá Trịnh Văn Vương (SN 1960) (thôn Thượng)- ông nghỉ hưu năm 2015.
Thượng tá Nguyễn Ngọc Tuyển (Khổng Lý).
Thượng tá Nguyễn Đình Thậm (Khổng Lý)
14. Phương ngôn, sự tích.
Thần tích về thành hoàng của làng Thượng, Đông.
Sự tích về Bến Ả Hoàng cô.
Phương ngôn:
-“Đầu Trắm, đuôi Mè giữa khe Tam Lạng”
-“Đông Trù, Quảng Bí, Khổng Lý, Nghĩa Hy”

15. Tư liệu

http://mp3.zing.vn/bai-hat/Cheo-Binh-Lang-yeu-thuong--Nguyen-Cuu-/ZW7C6Z89.html
(Chèo: Bình Lãng Yêu thương, Nguyễn Cửu, VOV2, ngày 22/4/2017, Khắp nơi đàn và hát dân ca)

https://www.youtube.com/watch?v=_heeVVK-5es
(Phóng sự: Bình Lãng truyền thống xưa và nay, HDTV, đón bằng chứng nhận di tích cấp tỉnh với Đình Thượng và Lăng Bà Bổi Lạng, 07/01/2016).

16. Chú giải:
(***) Chúng tôi sử dụng tài liệu họ Vương ở Ô Mễ ghi năm sinh của bà Chúa Chén là năm 1589 bởi những tài liệu họ Nguyễn Tất ở thôn Thượng - Bình Lãng về năm sinh của bà cũng như ngôi thứ hoàn toàn khác xa với những tư liệu trên cột đình Thượng (mà chính người trong họ Nguyễn Tất khắc vào trước khi cung tiến cho đình) và nguồn bi ký ở Ô Mễ. Hơn nữa những tài liệu văn bia ở Ô Mễ và Bình Lãng đều thống nhất tuyệt đối với nhau.  (tài liệu họ Nguyễn Tất ghi năm sinh của bà Chúa Chén là 1664 nhưng theo bi ký ở Ô Mễ thì năm 1608 bà đã cung tiến tiền để xây chùa Sùng Minh rồi, ...)
Trạm biến áp Khổng Lý (hòa điện ngày 20/12/2017)

cổng làng Đông (hoàn thành ngày 27/7/2017)




Đường ra đồng Khổng Lý được trải bê tông (từ cuối 2011)





Tòa nhà văn hóa thôn Đông (sử dụng từ 2017 - 7/2024)

Tòa nhà văn hóa thôn Đông (sử dụng từ 2017 - 7/2024)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TRỊNH KHẢI - LÀNG NHÔ

ẢNH BIA ĐÁ LĂNG BÀ BỔI LẠNG - THÔN ĐÔNG - BÌNH LÃNG - TỨ KỲ - HD